Thất diệp nhất chi hoa (cây bảy lá một hoa), còn có tên gọi là thất diệp chi mai, độc cước liên, thiết đăng đài, chi hoa đầu, tảo hưu, thảo hà xa, trọng lâu, thất tử liên, đăng đài thất …, là một là loại cây cỏ nhỏ, có hình dạng rất đặc biệt, sống lâu năm, thân rễ ngắn (dài khoảng 5 - 15cm), đường kính khoảng 2,5-3,5cm, nhiều đốt, thường mọc rải rác dưới tán rừng ẩm trên núi đất hoặc đá vôi ở độ cao vài trăm mét đến trên 1500m miền Tây Trung Quốc và dãy núi Hymalaya.
Mô tả :
Thân rễ đều nổi trên mặt đất, thân mọc thẳng đứng, cao chừng 1m, phần gốc có ít vẩy do một số lá cây thoái hóa tạo thành.
Lá mọc theo trùm thường lá 7 lá, có khi là 3-10 lá. Phiến lá hình mác rộng 4-8cm, dài 15-21cm, mặt lá nhẵn, đầu phiến lá nhọn, mặt dưới màu xanh nhạt hay xanh tím; cuống dài chừng 2.5-3cm.
Nhụy hoa màu tím đỏ, bầu thường có 3 ngăn. Hoa thường nở vào tháng 10-11, quả chín mọng màu tím đen.
| Family: Melanthiaceae Genus: Paris Species:P. polyphylla |
Cây Thất diệp nhất chi hoa thuộc họ Hắc dược hoa ( Melanthiaceae ) , tên khoa học Melanthiaceae | |
Ở nước ta, cây thuốc này mới được tìm thấy ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang vào năm 1995, trên độ cao 1.650m , cây sau này được tìm thấy phân bố ở các vùng núi cao như Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Mẫu Sơn (Lạng Sơn).
Theo dược học cổ truyền, thất diệp nhất chi hoa vị đắng cay, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải độc, bình suyễn chỉ khái (làm hết hen suyễn và giảm ho), tức phong định kính (chống co giật), tiêu thũng chỉ thống (làm hết sưng nề và giảm đau), thường được dùng để chữa các chứng bệnh như ung thũng, đinh độc (nhọt độc), lao lịch (lao hạch), hầu tý (viêm amydal), viêm khí phế quản cấp và mạn tính, trẻ em sốt cao co giật, rắn độc cắn, viêm da thần kinh, quai bị, thoát thư (viêm tắc động tĩnh mạch)…
Theo nghiên cứu của các tác giả ( Trung Quốc ) thất diệp nhất chi hoa có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi khuẩn như trực khuẩn lỵ, tụ cầu khuẩn, trực khuẩn coli, liên cầu khuẩn, trực khuẩn mủ xanh…; kháng virut cúm; làm giãn phế quản, chống co thắt, trừ đờm và giảm ho; trấn tĩnh giảm đau; chống viêm và cầm máu; làm giảm mỡ máu; nâng cao năng lực hoạt động của tuyến vỏ thượng thận và đặc biệt là có tác dụng ức chế trực tiếp sự phát triển của tế bào ung thư. Dịch chiết thất diệp nhất chi hoa góp phần kéo dài thời gian sống của những bệnh nhân bị ung thư dạ dày và ung thư phổi.
Một số bài thuốc từ cây 7 lá 1 hoa
Chữa rắn độc cắn: Dùng bột tảo hưu uống 2-3 lần ngày. Dùng 6g/lần. Hoặc có thể sắc 20g tảo hưu lấy nước uống trong ngày. Dùng thân rễ tươi giã nát, trộn với rượu trắng đắp vào chỗ bị rắn cắn không kể liều lượng.
Chữa sốt cao co giật, quai bị, sởi: 4g tảo hưu, 12g bạc hà, 8g thiên hoa phấn sắc lấy nước uống. Chia là 3 lần uống trong ngày.
Chữa trẻ nhỏ kinh sài, chân tay co giật: Dùng bột tảo hưu để uống, uống 4-5 lần/ ngày, mỗi lần 0,5-1g.
Chữa lòi dom: Mài tảo hưu với dấm rồi bôi trực tiếp nước thuốc vào hậu môn, đắp gạc vào rồi đẩy nhẹ lên. Ngày làm 2-3 lần.
Chữa ho, hen suyễn lâu ngày: Sắc 15g tảo hưu lấy nước uống; hoặc hầm với thịt gà hay phổi lợn để ăn.
Chữa các loại mụn độc sưng thũng: Tảo hưu trộn với dấm, giã nát, đắp lên chỗ sưng đau. Làm đến khi khỏi bệnh.